Thứ Sáu, 19 tháng 6, 2015

Tiền lương của người lao động đối với thời gian báo trước và ngày phép chưa nghỉ

Người lao động (NLĐ) trong Cty tôi gửi đơn xin chấm dứt hợp đồng lao động và báo trước 45 ngày. Trong các năm 2012 và 2013, NLĐ chưa nghỉ hết số phép năm. Vậy Cty tôi có phải trả lương cho NLĐ đối với những ngày báo trước và ngày phép chưa nghỉ hay không (Phạm Thị Tuyết).


Tiến sĩ, luật sư Vũ Thái Hà - Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội - trả lời:


Khoản 1 Điều 90 BLLĐ năm 2012 quy định: Tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho NLĐ để thực hiện công việc theo thỏa thuận. Tiền lương gồm mức lương theo công việc hoặc chức danh, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác. Mức lương của NLĐ không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Chính phủ quy định.

Khoản 1 Điều 7 Nghị định số 114/2002/NĐ-CP ngày 31.12.2002 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của BLLĐ về tiền lương quy định: Tiền lương theo thời gian được trả cho NLĐ căn cứ vào thời gian làm việc thực tế, cụ thể như sau: a) Tiền lương tháng được trả cho một tháng làm việc xác định trên cơ sở HĐLĐ; b) Tiền lương tuần được trả cho một tuần làm việc xác định trên cơ sở tiền lương tháng nhân với 12 tháng và chia cho 52 tuần; c) Tiền lương ngày được trả cho một ngày làm việc xác định trên cơ sở tiền lương tháng chia cho số ngày làm việc tiêu chuẩn trong tháng theo quy định của pháp luật mà DN, cơ quan lựa chọn, nhưng tối đa không quá 26 ngày; d) Tiền lương giờ được trả cho một giờ làm việc xác định trên cơ sở tiền lương ngày chia cho số giờ tiêu chuẩn quy định tại Điều 68 của BLLĐ.

Các Luật sư, chuyên gia Công ty Luật TNHH Everest cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật về hình sự, thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện; dịch vụ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218.


Điều 114 BLLĐ quy định về thanh toán tiền lương những ngày nghỉ hằng năm chưa nghỉ như sau: 1. NLĐ do thôi việc, bị mất việc làm hoặc vì ý do khác mà chưa nghỉ hằng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm thì được thanh toán bằng tiền những ngày chưa nghỉ. 2. NLĐ có dưới 12 tháng làm việc thì thời gian nghỉ hằng năm được tính theo tỉ lệ tương ứng với thời gian làm việc. Trường hợp không nghỉ thì được thanh toán bằng tiền.

Căn cứ các quy định trên thì Cty bà có trách nhiệm thanh toán tiền lương, tiền công cho NLĐ đến khi chấm dứt hợp đồng lao động.

Trường hợp NLĐ chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm thì NLĐ được thanh toán tiền trên tổng những ngày chưa nghỉ trong năm.

Khuyến nghị:
Nội dung bài tư vấn pháp luật mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Để có thông tin chính xác cho tình huống cụ thể, Quý vị nên tìm đến sự hỗ trợ của các luật sư, luật gia và tổ chức chuyên nghiệp.

Để được hỗ trợ dịch vụ thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện, Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218 để yêu cầu cung cấp dịch vụ:

Địa chỉ: Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kon Tum, Thanh Xuân, Hà Nội
Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến: 1900 6218 - Hotline: 0936.949.998 (Luật sư Nguyễn Minh Hải)
E-mail: minhpham.everest@gmail.com, Hoặc: info@luatviet.net.vn.

Thủ tục tuyển dụng người nước ngoài làm việc tại Việt Nam

Tôi là chủ một doanh nghiệp tư nhân, muốn thuê người nước ngoài làm chuyên gia điều hành sản xuất tại doanh nghiệp. Xin luật sư tư vấn giúp: Doanh nghiệp phải thực hiện những thủ tục nào (Trần Anh).


Tiến sĩ, luật sư Vũ Thái Hà - Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội - trả lời: 


Theo quy định tại Điều 3 và khoản 1 Điều 4 Nghị định số 34/2008/NĐ-CP quy định về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại VN thì người sử dụng lao động (NSDLĐ) được tuyển người nước ngoài để làm công việc quản lý, giám đốc điều hành và chuyên gia mà lao động VN chưa đáp ứng được theo nhu cầu sản xuất, kinh doanh, khi người nước ngoài đảm bảo đầy đủ các điều kiện sau: Đủ 18 tuổi trở lên; có sức khỏe phù hợp với yêu cầu công việc; là nhà quản lý, giám đốc điều hành hoặc chuyên gia theo quy định; không có tiền án về tội vi phạm an ninh quốc gia, không thuộc diện đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đang chấp hành hình phạt hình sự theo quy định pháp luật VN và pháp luật nước ngoài; có giấy phép lao động (GPLĐ) do cơ quan nhà nước có thẩm quyền của VN cấp, trừ các trường hợp không phải cấp GPLĐ theo quy định.

Khoản 4 Điều 4 Nghị định số 34/2008/NĐ-CP đã được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định số 46/2011/NĐ-CP của Chính phủ quy định: Trước khi tuyển người nước ngoài ít nhất 30 (ba mươi) ngày, NSDLĐ phải thông báo nhu cầu tuyển người lao động VN vào các vị trí công việc dự kiến tuyển người nước ngoài trên ít nhất 1 (một) số báo trung ương và ít nhất 1 (một) số báo địa phương bằng một trong các hình thức là báo viết, báo nói, báo hình hoặc báo điện tử về các nội dung: Số lượng người cần tuyển, vị trí công việc, trình độ chuyên môn, mức lương và các khoản thu nhập khác, điều kiện làm việc và một số nội dung khác nếu NSDLĐ yêu cầu. Trường hợp NSDLĐ tuyển người nước ngoài thông qua tổ chức giới thiệu việc làm thì không cần phải tuân theo thủ tục này.

Các Luật sư, chuyên gia Công ty Luật TNHH Everest cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật về hình sự, thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện; dịch vụ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218.


NSDLĐ phải cung cấp đầy đủ các quy định của pháp luật VN có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người nước ngoài vào Việt Nam làm việc, tiếp nhận hồ sơ đăng ký dự tuyển lao động của người nước ngoài khi hồ sơ hợp lệ và phải làm thủ tục đề nghị cấp GPLĐ cho người nước ngoài vào làm việc tại VN. Khi được cấp GPLĐ, phải tiến hành giao kết hợp đồng lao động bằng văn bản theo quy định của pháp luật lao động VN; NSDLĐ có trách nhiệm gửi bản sao hợp đồng lao động đã giao kết tới cơ quan đã cấp GPLĐ cho người nước ngoài đó.

Căn cứ các quy định nói trên, theo các thông tin ông đã cung cấp, công ty ông có thể tuyển dụng chuyên gia là người lao động nước ngoài theo hình thức hợp đồng lao động. Trình tự, thủ tục tuyển dụng được thực hiện theo các quy định đã trích dẫn ở trên.

Khuyến nghị:
Nội dung bài tư vấn pháp luật mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Để có thông tin chính xác cho tình huống cụ thể, Quý vị nên tìm đến sự hỗ trợ của các luật sư, luật gia và tổ chức chuyên nghiệp.

Để được hỗ trợ dịch vụ thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện, Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218 để yêu cầu cung cấp dịch vụ:

Địa chỉ: Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kon Tum, Thanh Xuân, Hà Nội
Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến: 1900 6218 - Hotline: 0936.949.998 (Luật sư Nguyễn Minh Hải)
E-mail: minhpham.everest@gmail.com, Hoặc: info@luatviet.net.vn.

Chế độ hưởng trợ cấp thôi việc khi chấm dứt HĐLĐ

Tôi ký HĐLĐ không xác định thời hạn với một công ty từ ngày 1.5.2008. Vì lý do sức khỏe, tôi dự định xin nghỉ việc vào tháng 9.2013. Mức lương trên HĐLĐ là 3.500.000 đồng/tháng, tuy nhiên, lương thực nhận hằng tháng của tôi là 8.000.000 đồng/tháng. Đề nghị luật sư cho biết: Khi chấm dứt HĐLĐ, tôi có được hưởng trợ cấp thôi việc không? Cách tính như thế nào? (Phạm Tuấn Vương).


Tiến sĩ, luật sư Vũ Thái Hà - Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội - trả lời:


Tại Điều 48 Bộ luật Lao động 2012 (BLLĐ) quy định: “1. Khi HĐLĐ chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương; 2. Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc; 3. Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo HĐLĐ của 6 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc”.

Dựa vào quy định trên, đối chiếu với trường hợp của ông, đã làm việc thường xuyên theo HĐLĐ từ ngày 1.5.2008 đến tháng 9.2013 (5 năm), do đó, ông thuộc đối tượng người lao động được hưởng trợ cấp thôi việc khi chấm dứt HĐLĐ.
Mặc dù lương thực nhận hằng tháng của ông là 8.000.000 đồng/tháng, nhưng khi tính trợ cấp thôi việc, tiền lương làm căn cứ tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo HĐLĐ của 6 tháng liền kề trước khi chấm dứt HĐLĐ. Do đó, mức tiền lương làm căn cứ tính trợ cấp thôi việc của ông là mức tiền lương theo HĐLĐ hai bên đã ký kết, có nghĩa là 3.500.000 đồng/tháng.

Các Luật sư, chuyên gia Công ty Luật TNHH Everest cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật về hình sự, thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện; dịch vụ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218.


Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc của ông là tổng thời gian ông đã làm việc thực tế trong công ty trừ đi thời gian ông tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Như vậy, thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc của ông được tính từ ngày 1.5.2008 đến ngày 1.1.2009 (thời điểm người lao động thực hiện đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật BHXH), mà theo khoản 5 Điều 14 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của BLLĐ về HĐLĐ, tổng thời gian làm việc tại doanh nghiệp tính trợ cấp thôi việc có tháng lẻ thì được làm tròn: Từ đủ 1 tháng đến dưới 6 tháng làm tròn thành 1/2  năm; từ đủ 6 tháng đến dưới 12 tháng làm tròn thành 1 năm. Do đó, thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc cho ông sẽ được làm tròn là 1 năm.

Dựa theo cách tính trợ cấp thôi việc quy định tại Điều 48 BLLĐ: Tiền trợ cấp thôi việc = Tổng thời gian làm việc tại doanh nghiệp tính trợ cấp thôi việc x tiền lương làm căn cứ tính trợ cấp thôi việc  x 1/2. Như vậy, trợ cấp thôi việc của ông được tính là: 1  x  (3.500.000 x 1/2) = 1.750.000 đồng.

Khuyến nghị:
Nội dung bài tư vấn pháp luật mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Để có thông tin chính xác cho tình huống cụ thể, Quý vị nên tìm đến sự hỗ trợ của các luật sư, luật gia và tổ chức chuyên nghiệp.

Để được hỗ trợ dịch vụ thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện, Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218 để yêu cầu cung cấp dịch vụ:

Địa chỉ: Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kon Tum, Thanh Xuân, Hà Nội
Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến: 1900 6218 - Hotline: 0936.949.998 (Luật sư Nguyễn Minh Hải)
E-mail: minhpham.everest@gmail.com, Hoặc: info@luatviet.net.vn.

Xây dựng thang lương, bảng lương cho người lao động làm việc trong điều kiện độc hại

Tôi là chủ một doanh nghiệp tư nhân. Hiện nay, ngoài mức lương cơ bản, doanh nghiệp tôi có trả thêm lương cho các công nhân sản xuất làm việc trong điều kiện nặng nhọc, độc hại. Xin luật sư tư vấn giúp: Việc xây dựng thang lương, bảng lương cho người lao động trong trường hợp này được quy định như thế nào (Nguyễn Mạnh Trinh).


Tiến sĩ, luật sư Vũ Thái Hà - Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội - trả lời: 


Điều 7 Nghị định 49/2013/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Bộ luật Lao động về tiền lương quy định như sau: Căn cứ vào tổ chức sản xuất, tổ chức lao động, doanh nghiệp xây dựng và quyết định thang lương, bảng lương đối với lao động quản lý, lao động chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ và công nhân trực tiếp sản xuất, kinh doanh, phục vụ.

Tại điểm c, khoản 3 điều 7 quy định: Mức lương thấp nhất (khởi điểm) của công việc hoặc chức danh trong thang lương, bảng lương do công ty xác định trên cơ sở mức độ phức tạp của công việc hoặc chức danh tương ứng với trình độ, kỹ năng, trách nhiệm, kinh nghiệm để thực hiện công việc hoặc chức danh, trong đó, mức lương của công việc hoặc chức danh có điều kiện lao động nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm phải cao hơn ít nhất 5%; công việc hoặc chức danh có điều kiện lao động đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm phải cao hơn ít nhất 7% so với mức lương của công việc hoặc chức danh có độ phức tạp tương đương, làm việc trong điều kiện lao động bình thường.

Khi xây dựng và áp dụng thang lương, bảng lương phải bảo đảm bình đẳng, không phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, màu da, thành phần xã hội, tình trạng hôn nhân, tín ngưỡng, tôn giáo, nhiễm HIV, khuyết tật hoặc vì lý do thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn đối với người lao động, đồng thời phải xây dựng tiêu chuẩn để xếp lương, điều kiện nâng bậc lương.

Các Luật sư, chuyên gia Công ty Luật TNHH Everest cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật về hình sự, thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện; dịch vụ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218.


Thang lương, bảng lương phải được định kỳ rà soát để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện thực tế về đổi mới công nghệ, tổ chức sản xuất, tổ chức lao động, mặt bằng tiền lương trên thị trường lao động và bảo đảm các quy định của pháp luật lao động.

Khi xây dựng hoặc sửa đổi, bổ sung thang lương, bảng lương, doanh nghiệp phải tham khảo ý kiến của tổ chức đại diện tập thể người lao động tại doanh nghiệp và công bố công khai tại nơi làm việc của người lao động trước khi thực hiện, đồng thời gửi cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp huyện nơi đặt cơ sở sản xuất của doanh nghiệp.
Như vậy, trong trường hợp của ông, việc xây dựng thang - bảng lương cho người lao động làm việc trong điều kiện lao động nặng nhọc, độc hại được căn cứ vào tổ chức sản xuất, tổ chức lao động của doanh nghiệp và phải tuân theo các nguyên tắc như đã trích dẫn ở trên.

Khuyến nghị:
Nội dung bài tư vấn pháp luật mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Để có thông tin chính xác cho tình huống cụ thể, Quý vị nên tìm đến sự hỗ trợ của các luật sư, luật gia và tổ chức chuyên nghiệp.

Để được hỗ trợ dịch vụ thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện, Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218 để yêu cầu cung cấp dịch vụ:

Địa chỉ: Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kon Tum, Thanh Xuân, Hà Nội
Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến: 1900 6218 - Hotline: 0936.949.998 (Luật sư Nguyễn Minh Hải)
E-mail: minhpham.everest@gmail.com, Hoặc: info@luatviet.net.vn.

Gia hạn hợp đồng lao động đối với cán bộ công đoàn không chuyên trách

Tôi là cán bộ công đoàn chuyên trách nhiệm kỳ 2012-2014, hợp đồng lao động (HĐLĐ) của tôi sẽ hết hạn vào ngày 22.8.2013. Tôi hiện mang thai và dự sinh vào đầu tháng 8.2013. Thời điểm hết hạn HĐLĐ của tôi trùng với thời gian tôi nghỉ thai sản thì Công ty có quyền ra quyết định chấm dứt HĐLĐ không (Mỹ Hạnh).


Tiến sĩ, luật sư Vũ Thái Hà - Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội - trả lời: 


Theo Điều 36 Bộ luật Lao động 2012 (BLLĐ), hết hạn HĐLĐ là một trong các trường hợp chấm dứt HĐLĐ. Khoản 3 Điều 155 BLLĐ quy định “Người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt HĐLĐ đối với LĐ nữ vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp người sử dụng LĐ là cá nhân chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết hoặc người sử dụng LĐ không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động”.

Như vậy, pháp luật chỉ quy định người sử dụng LĐ  không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt HĐ đối với lao động nữ vì lý do nghỉ thai sản, có nghĩa là trong trường hợp HĐLĐ vẫn đang có hiệu lực. Do đó, trong trường hợp HĐLĐ hết hạn, mà thời gian hết hạn HĐLĐ trùng với thời gian người LĐ nữ nghỉ thai sản, hai bên không thỏa thuận ký HĐLĐ mới  thì HĐLĐ đó đương nhiên chấm dứt  theo khoản 1 Điều 36 BLLĐ.

Các Luật sư, chuyên gia Công ty Luật TNHH Everest cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật về hình sự, thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện; dịch vụ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218.


Tại khoản 6 Điều 192 BLLĐ: “Khi người LĐ  là cán bộ CĐ không chuyên trách đang trong nhiệm kỳ CĐ mà hết hạn HĐLĐ thì được gia hạn HĐLĐ đã giao kết đến hết nhiệm kỳ”. Đối chiếu với trường hợp của bà, HĐLĐ hết hạn vào ngày 22.8.2013, tuy nhiên nhiệm kỳ CĐ của bà tới năm 2014, do đó, HĐLĐ đã giao kết sẽ được gia hạn cho đến hết nhiệm kỳ cán bộ CĐ chuyên trách mà bà đảm nhiệm. Tuy nhiên, đây là việc gia hạn HĐLĐ cho đến thời hạn trên chứ không phải ký tiếp HĐLĐ mới. Việc gia hạn này không làm phát sinh thêm HĐLĐ mới mà chỉ bổ sung vào hợp đồng cũ về thời hạn hợp đồng.

Theo quy định tại Điều 158 BLLĐ, bà sẽ được bảo đảm việc làm cũ khi trở lại làm việc sau thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản, trường hợp việc làm cũ không còn thì công ty có trách nhiệm bố trí cho bà làm công việc khác với mức lương không thấp hơn mức lương trước khi nghỉ thai sản.

Khuyến nghị:
Nội dung bài tư vấn pháp luật mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Để có thông tin chính xác cho tình huống cụ thể, Quý vị nên tìm đến sự hỗ trợ của các luật sư, luật gia và tổ chức chuyên nghiệp.

Để được hỗ trợ dịch vụ thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện, Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218 để yêu cầu cung cấp dịch vụ:

Địa chỉ: Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kon Tum, Thanh Xuân, Hà Nội
Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến: 1900 6218 - Hotline: 0936.949.998 (Luật sư Nguyễn Minh Hải)
E-mail: minhpham.everest@gmail.com, Hoặc: info@luatviet.net.vn.

Mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội


Tháng 5.2011, tôi ký HĐLĐ xác định thời hạn 12 tháng với Cty với mức lương thỏa thuận là 29.000.000 VND/tháng, tỉ lệ nộp BHXH, BHYT, BHTN là 8,5% mức lương. Tuy nhiên, sau đó, tôi được biết Cty chỉ đóng BHXH cho tôi theo mức lương 7.000.000­ VND/tháng, và không đóng BHTN. Khi được hỏi, Cty giải thích rằng vì quy mô Cty dưới 15 người nên không thể đóng BHTN. Đề nghị luật sư cho biết việc Cty đóng BHXH theo mức lương không đúng với thỏa thuận ghi trong HĐ và giải thích không đóng BHTN


Tiến sĩ, luật sư Vũ Thái Hà - Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội - trả lời: 


Theo điểm a khoản 1 Điều 18 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 (Luật BHXH) thì người sử dụng lao động phải có trách nhiệm: “Đóng bảo hiểm xã hội theo quy định tại Điều 92 và hằng tháng trích từ tiền lương, tiền công của người lao động theo quy định tại khoản 1 Điều 91 của luật này để đóng cùng một lúc vào quỹ bảo hiểm xã hội”.
Khoản 2 Điều 94 Luật BHXH quy định về tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH bắt buộc nêu rõ: “Đối với NLĐ đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do NSDLĐ quyết định thì tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội là mức tiền lương, tiền công ghi trong hợp đồng lao động”.

Các Luật sư, chuyên gia Công ty Luật TNHH Everest cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật về hình sự, thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện; dịch vụ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218.


Theo Khoản 3 Phần C Thông tư 03/2007/TT-BLĐTBXH   hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 152/2006/NĐ-CP hướng dẫn một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về Luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc, thì tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc quy định tại khoản 3 Điều 45 Nghị định số 152/2006/NĐ-CP được hướng dẫn như sau: “Người lao động có mức tiền lương, tiền công tháng cao hơn 20 tháng lương tối thiểu chung thì mức tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội bằng 20 tháng lương tối thiểu chung. Khi Chính phủ điều chỉnh mức lương tối thiểu chung thì mức tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội cũng sẽ thay đổi theo quy định trên”. Khoản 4 Điều 2 Luật BHXH quy định: “Người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp là người sử dụng lao động quy định tại khoản 2 Điều này có sử dụng từ mười lao động trở lên”.

Như vậy, căn cứ theo các quy định pháp luật trên, đối chiếu thông tin ông cung cấp, thì việc công ty đóng BHXH cho ông không theo mức lương đã thỏa thuận tại HĐLĐ, và giải thích rằng không đóng BHTN bởi vì quy mô công ty dưới 15 người là không đúng theo quy định của pháp  luật.

Khuyến nghị:
Nội dung bài tư vấn pháp luật mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Để có thông tin chính xác cho tình huống cụ thể, Quý vị nên tìm đến sự hỗ trợ của các luật sư, luật gia và tổ chức chuyên nghiệp.

Để được hỗ trợ dịch vụ thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện, Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218 để yêu cầu cung cấp dịch vụ:

Địa chỉ: Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kon Tum, Thanh Xuân, Hà Nội
Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến: 1900 6218 - Hotline: 0936.949.998 (Luật sư Nguyễn Minh Hải)
E-mail: minhpham.everest@gmail.com, Hoặc: info@luatviet.net.vn.

Chấm dứt hợp đồng lao động đối với lao động nữ nuôi con dưới 12 tháng tuổi

Tôi làm việc tại một ngân hàng thương mại cổ phần từ tháng 9.2010 theo hợp đồng lao động xác định thời hạn 36 tháng và hiện đang trong thời gian nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi. Hiện nay, ngân hàng đang gặp khó khăn về kinh tế, muốn cắt giảm nhân sự nên đã đề nghị chấm dứt HĐLĐ với tôi và sẽ bồi thường cho tôi 3 tháng lương. Xin hỏi luật sư: HĐLĐ của tôi có thể bị chấm dứt không và trong trường hợp HĐLĐ chấm dứt thì tôi sẽ được hưởng chế độ gì (Nguyễn Thu Trang).


Tiến sĩ, luật sư Vũ Thái Hà - Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội - trả lời: 


- Tại khoản 3, Điều 39 và khoản 3, Điều 155 Bộ luật Lao động hiện hành quy định: Người sử dụng lao động (NSDLĐ) không được sa thải hay đơn phương chấm dứt HĐLĐ đối với lao động nữ khi đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp NSDLĐ là cá nhân chết, bị toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết hoặc NSDLĐ không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động. Ngoài ra, tại khoản 3, Điều 36 BLLĐ quy định: HĐLĐ chấm dứt trong trường hợp hai bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng.

Như vậy, căn cứ các quy định nói trên, theo các thông tin mà bà cung cấp, bà là lao động nữ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi, do đó, ngân hàng sẽ không được sa thải hay đơn phương chấm HĐLĐ đối với bà. Tuy nhiên, trong trường hợp hai bên đạt được thỏa thuận về việc chấm dứt hợp đồng thì pháp luật công nhận sự thỏa thuận đó và HĐLĐ sẽ chấm dứt.

Các Luật sư, chuyên gia Công ty Luật TNHH Everest cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật về hình sựthành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện; dịch vụ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218.

Theo các quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 47 BLLĐ 2012 thì: Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt HĐLĐ, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên; trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày. NSDLĐ có trách nhiệm hoàn thành thủ tục xác nhận và trả lại sổ bảo hiểm xã hội và những giấy tờ khác mà NSDLĐ đã giữ lại của người lao động.

Khi HĐLĐ chấm dứt trong trường hợp nói trên, nếu bà có đủ các điều kiện để hưởng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định tại Điều 81 Luật BHXH 2006, bà sẽ được hưởng trợ cấp thất nghiệp do cơ quan bảo hiểm xã hội chi trả. Mức trợ cấp thất nghiệp và thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp được thực hiện theo quy định tại Điều 82 Luật BHVXH 2006.

Khuyến nghị:
Nội dung bài tư vấn pháp luật mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Để có thông tin chính xác cho tình huống cụ thể, Quý vị nên tìm đến sự hỗ trợ của các luật sư, luật gia và tổ chức chuyên nghiệp.

Để được hỗ trợ dịch vụ thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện, Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218 để yêu cầu cung cấp dịch vụ:

Địa chỉ: Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kon Tum, Thanh Xuân, Hà Nội
Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến: 1900 6218 - Hotline: 0936.949.998 (Luật sư Nguyễn Minh Hải)
E-mail: minhpham.everest@gmail.com, Hoặc: info@luatviet.net.vn.

Tiền lương và chế độ bảo hiểm cho người lao động bị ngừng việc

Công ty tôi hiện đang gặp nhiều khó khăn nên dự kiến sẽ tạm thời cho bộ phận công nhân trực tiếp sản xuất ngừng việc. Đề nghị luật sư cho biết, trong trường hợp này, tiền lương và chế độ bảo hiểm xã hội cho những người lao động này công ty phải chi trả như thế nào (Nguyễn Lan Anh).


Tiến sĩ, luật sư Vũ Thái Hà - Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội - trả lời: 


Theo quy định tại Điều 62 Bộ luật Lao động hiện hành thì trong trường hợp phải ngừng việc, người lao động được trả lương như sau: i) Nếu do lỗi của người sử dụng lao động, thì người lao động được trả đủ tiền lương; ii) Nếu do lỗi của người lao động thì người đó không được trả lương; những người lao động khác trong cùng đơn vị phải ngừng việc được trả lương theo mức do hai bên thoả thuận nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu; iii) Nếu vì sự cố về điện, nước mà không do lỗi của người sử dụng lao động hoặc vì những nguyên nhân bất khả kháng, thì tiền lương do hai bên thoả thuận, nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu.

Bên cạnh đó, tại khoản 3 Điều 3 Nghị định số 195/NĐ – CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Bộ luật Lao động về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi thì “Thời giờ phải ngừng việc không do lỗi của người lao động” được tính vào thời giờ làm việc có hưởng lương.

Khoản 2 Điều 54 Quy định quản lý thu bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), quản lý sổ BHXH, thẻ BHYT ban hành kèm theo Quyết định số 1111/QĐ-BHXH ngày 25.10.2011 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam, thì người lao động ngừng việc, nghỉ việc trong tháng, có ít nhất 1 ngày làm việc và hưởng tiền lương trong tháng, thì tính đóng BHXH, BHYT, BHTN đối với đơn vị và người lao động như sau: Trường hợp số ngày không làm việc và không hưởng tiền lương từ 14 ngày trở lên trong tháng thì không tính đóng BHXH, BHYT, BHTN của tháng đó.

Các Luật sư, chuyên gia Công ty Luật TNHH Everest cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật về hình sựthành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện; dịch vụ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218.


Người lao động ngừng việc, nghỉ việc thì tính đóng BHXH, BHYT, BHTN đến ngày cuối cùng của tháng trước liền kề tháng ngừng việc, nghỉ việc. Nếu đơn vị và người lao động đề nghị đóng BHXH, BHYT, BHTN cho cả tháng mà người lao động có ít nhất 1 ngày làm việc và hưởng tiền lương, tiền công thì thực hiện theo đề nghị của đơn vị. Trường hợp số ngày không làm việc và không hưởng tiền lương dưới 14 ngày trong tháng thì tính đóng BHXH, BHYT, BHTN đối với đơn vị và người lao động cả tháng đó. Người lao động ngừng việc, nghỉ việc thì tính đóng BHXH, BHYT, BHTN đến ngày cuối cùng của tháng ngừng việc, nghỉ việc.

Theo các thông tin bà cung cấp, công ty bà hiện đang gặp nhiều khó khăn nên dự kiến sẽ tạm thời cho bộ phận công nhân trực tiếp sản xuất ngừng việc, do đó, đây là thời giờ phải ngừng việc không do lỗi của người lao động. Căn cứ vào quy định nói trên, người sử dụng lao động vẫn phải trả lương và tham gia BHXH cho người lao động như thời gian làm việc bình thường.

Khuyến nghị:
Nội dung bài tư vấn pháp luật mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Để có thông tin chính xác cho tình huống cụ thể, Quý vị nên tìm đến sự hỗ trợ của các luật sư, luật gia và tổ chức chuyên nghiệp.

Để được hỗ trợ dịch vụ thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện, Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218 để yêu cầu cung cấp dịch vụ:

Địa chỉ: Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kon Tum, Thanh Xuân, Hà Nội
Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến: 1900 6218 - Hotline: 0936.949.998 (Luật sư Nguyễn Minh Hải)
E-mail: minhpham.everest@gmail.com, Hoặc: info@luatviet.net.vn.

Sa thải và yêu cầu bồi thường khi người lao động làm thất thoát tài sản của doanh nghiệp

Tháng 3.2013, tại công ty tôi có một người lao động cố ý làm thất thoát hàng hóa trị giá mười hai triệu đồng. Xin luật sư tư vấn giúp: Doanh nghiệp có thể áp dụng hình thức kỷ luật sa thải đồng thời yêu cầu người lao động bồi thường hàng hóa của công ty hay không? (Lê Thu Hương).


Tiến sĩ, luật sư Vũ Thái Hà - Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội - trả lời:


Tại điểm a, khoản 1, Điều 85, Bộ luật Lao động 2007 (BLLĐ) quy định hình thức sa thải được áp dụng đối với người lao động trong trường hợp: Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, tiết lộ bí mật công nghệ, kinh doanh hoặc có hành vi khác gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp.

Tại điểm a, khoản 3, điều 6, Nghị định 41/CP hướng dẫn BLLĐ về kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất quy định: Hình thức sa thải được áp dụng đối với người lao động vi phạm một trong những trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 85 của BLLĐ và đã cụ thể hóa trong nội quy lao động.

Tại mục 1 phần III Thông tư 19/2003/TT-BLĐTBXH quy định: Để xử lý kỷ luật lao động phù hợp với mức độ vi phạm của người lao động khi có hành vi trộm cắp, tham ô, tiết lộ bí mật công nghệ, kinh doanh hoặc có hành vi khác gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp thì người sử dụng lao động căn cứ đặc điểm sản xuất kinh doanh của đơn vị để quy định cụ thể mức giá trị tài sản bị trộm cắp, tham ô, tiết lộ bí mật công nghệ kinh doanh hoặc có hành vi khác gây thiệt hại được coi là nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của đơn vị để quyết định việc sa thải người lao động.

Các Luật sư, chuyên gia Công ty Luật TNHH Everest cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật về hình sựthành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện; dịch vụ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218.


Tại Điều 90 BLLĐ và các điều 13, điều 15 Nghị định 41/CP hướng dẫn BLLĐ về kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất quy định: Người lao động làm mất dụng cụ, thiết bị, làm mất các tài sản khác do doanh nghiệp giao hoặc tiêu hao vật tư quá định mức cho phép thì tuỳ trường hợp phải bồi thường thiệt hại một phần hay toàn bộ theo thời giá thị trường; trong trường hợp có hợp đồng trách nhiệm thì phải bồi thường theo hợp đồng trách nhiệm; trong trường hợp bất khả kháng thì không phải bồi thường. Việc xem xét, quyết định bồi thường thiệt hại phải căn cứ vào lỗi và mức độ thiệt hại thực tế. Các trường hợp bồi thường theo thời giá thị trường phải được quy định trong nội quy lao động. Khi quyết định mức bồi thường cần xét đến thực trạng hoàn cảnh gia đình, nhân thân và tài sản của người lao động.

Như vậy, căn cứ vào các quy định nói trên, theo các thông tin mà bà cung cấp, công ty bà có thể tiến hành xử lý kỷ luật sa thải đối với người lao động có hành vi cố ý làm thất thoát tài sản của công ty khi giá trị bị thất thoát này được coi là gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp đã quy định cụ thể trong nội quy lao động. Đồng thời, công ty có thể yêu cầu người lao động bồi thường thiệt hại theo đúng các quy định nêu trên.  

Khuyến nghị:
Nội dung bài tư vấn pháp luật mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Để có thông tin chính xác cho tình huống cụ thể, Quý vị nên tìm đến sự hỗ trợ của các luật sư, luật gia và tổ chức chuyên nghiệp.

Để được hỗ trợ dịch vụ thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện, Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218 để yêu cầu cung cấp dịch vụ:

Địa chỉ: Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kon Tum, Thanh Xuân, Hà Nội
Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến: 1900 6218 - Hotline: 0936.949.998 (Luật sư Nguyễn Minh Hải)
E-mail: minhpham.everest@gmail.com, Hoặc: info@luatviet.net.vn.

Tạm thời chuyển người lao động làm công việc khác trái nghề

Tôi làm việc tại một công ty theo hợp đồng lao động xác định thời hạn 1 năm. Trong quá trình làm việc, tôi luôn thực hiện tốt công việc được giao theo đúng thỏa thuận đã ghi trong hợp đồng. Vừa qua, lãnh đạo công ty đột ngột có quyết định chuyển tôi làm công việc khác hoàn toàn trái với chuyên môn của tôi và không đúng thỏa thuận về nội dung công việc đã ghi trong hợp đồng. Xin luật sư tư vấn giúp: Công ty làm như vậy với tôi có đúng không (Trần Thanh Tâm).


Thạc sĩ, Luật sư Phạm Ngọc Minh - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:


Tại Điều 34 Bộ luật Lao động quy định: Khi gặp khó khăn đột xuất hoặc do nhu cầu sản xuất, kinh doanh, người sử dụng lao động được quyền tạm thời chuyển người lao động làm công việc khác trái nghề, nhưng không được quá 60 ngày trong một năm.
Khi tạm thời chuyển người lao động làm việc khác trái nghề, người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước ít nhất 3 ngày, phải báo rõ thời hạn làm tạm thời và bố trí công việc phù hợp với sức khoẻ và giới tính của người lao động.
Tại Điều 9 Nghị định 44/2003/NĐ-CP hướng dẫn Bộ luật Lao động về hợp đồng lao động quy định việc tạm thời chuyển người lao động làm việc khác trái nghề quy định tại Điều 34 Bộ luật Lao động như sau: Khi người sử dụng lao động gặp khó khăn đột xuất do khắc phục hậu quả thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh; áp dụng các biện pháp ngăn ngừa, khắc phục tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; sự cố điện, nước hoặc nhu cầu của sản xuất - kinh doanh thì người sử dụng lao động có quyền tạm thời chuyển người lao động làm việc khác trái nghề, nhưng không được quá 60 ngày (cộng dồn) trong một năm.
Trong thời gian này, nếu người lao động không chấp hành quyết định của người sử dụng lao động thì có thể bị xử lý kỷ luật lao động và không được hưởng lương ngừng việc và tuỳ theo mức độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật theo quy định của Bộ luật Lao động.
Trong trường hợp người sử dụng lao động tạm thời chuyển người lao động làm việc khác trái nghề quá 60 ngày (cộng dồn) trong một năm thì phải có sự thoả thuận của người lao động; nếu người lao động không chấp thuận mà họ phải ngừng việc thì người đó được hưởng lương theo quy định trả lương trong trường hợp phải ngừng việc của Bộ luật Lao động.

Các Luật sư, chuyên gia Công ty Luật TNHH Everest cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật về hình sự, thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện; dịch vụ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218.


Như vậy, căn cứ vào các quy định nói trên, theo các thông tin mà bà cung cấp, công ty chỉ có thể chuyển bà làm công việc khác trái với chuyên môn trong trường hợp gặp khó khăn đột xuất hoặc do nhu cầu sản xuất kinh doanh theo luật định. Khi chuyển người lao động làm công việc khác trái chuyên môn, công ty phải báo trước ít nhất 3 ngày, báo rõ thời hạn làm tạm thời và bố trí công việc phù hợp với sức khoẻ và giới tính của người lao động. Trường hợp tạm thời chuyển người lao động làm việc khác trái nghề quá 60 ngày (cộng dồn) trong một năm thì phải có sự thỏa thuận với người lao động.

Khuyến nghị:
Nội dung bài tư vấn pháp luật mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Để có thông tin chính xác cho tình huống cụ thể, Quý vị nên tìm đến sự hỗ trợ của các luật sư, luật gia và tổ chức chuyên nghiệp.

Để được hỗ trợ dịch vụ thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện, Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218 để yêu cầu cung cấp dịch vụ:

Địa chỉ: Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kon Tum, Thanh Xuân, Hà Nội
Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến: 1900 6218 - Hotline: 0936.949.998 (Luật sư Nguyễn Minh Hải)
E-mail: minhpham.everest@gmail.com, Hoặc: info@luatviet.net.vn.

Sa thải người lao động do hành vi trộm cắp tài sản

Vừa qua, công ty tôi có một nhân viên có hành vi trộm cắp vật tư của công ty về làm của riêng, giá trị số vật tư này không vượt quá 5.000.000 đồng. Hiện tại, công ty đang tiến hành xem xét kỷ luật đối với nhân viên nói trên. Xin luật sư tư vấn giúp: Theo quy định của pháp luật, với giá trị tài sản bị trộm cắp nói trên thì công ty có thể áp dụng hình thức kỷ luật sa thải đối với nhân viên này được không (Trần Xuân Trường).


Tiến sĩ, luật sư Vũ Thái Hà - Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội - trả lời: 


Khoản 1, Điều 85 Bộ luật Lao động hiện hành quy định người sử dụng lao động chỉ được áp dụng hình thức kỷ luật sa thải đối với người lao động trong những trường hợp sau: a) Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, tiết lộ bí mật công nghệ, kinh doanh hoặc có hành vi khác gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp; b) Người lao động bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương, chuyển làm công việc khác mà tái phạm trong thời gian chưa xoá kỷ luật hoặc bị xử lý kỷ luật cách chức mà tái phạm; c) Người lao động tự ý bỏ việc 5 ngày cộng dồn trong một tháng hoặc 20 ngày cộng dồn trong một năm mà không có lý do chính đáng.

Các Luật sư, chuyên gia Công ty Luật TNHH Everest cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật về hình sự, thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện; dịch vụ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218.


Theo quy định tại mục 1, phần III  Thông tư số 19/2003/TT-BLĐTBXH của Bộ LĐTB&XH hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 41/CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Bộ luật Lao động thì: Để xử lý kỷ luật lao động phù hợp với mức độ vi phạm của ngươi lao động khi vi phạm một trong các trường hợp người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, tiết lộ bí mật công nghệ, kinh doanh hoặc có hành vi khác gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp thì người sử dụng lao động căn cứ đặc điểm sản xuất kinh doanh của đơn vị để quy định cụ thể mức giá trị tài sản bị trộm cắp, tham ô, tiết lộ bí mật công nghệ kinh doanh hoặc có hành vi khác gây thiệt hại được coi là nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của đơn vị để quyết định việc sa thải người lao động.

Như vậy, căn cứ vào các quy định nói trên, có thể thấy, pháp luật hiện hành không quy định cụ thể mức giá trị tài sản bị trộm cắp làm căn cứ để quyết định sa thải người lao động, mà cho phép người sử dụng lao động có thể dựa vào các đặc điểm sản xuất kinh doanh của đơn vị để quyết định mức giá trị tài sản nói trên. Do đó, theo các thông tin mà ông cung cấp, công ty có thể tự quyết định mức giá trị tài sản bị trộm cắp làm cơ sở để tiến hành xử lý kỷ luật sa thải đối với người lao động.

Khuyến nghị:
Nội dung bài tư vấn pháp luật mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Để có thông tin chính xác cho tình huống cụ thể, Quý vị nên tìm đến sự hỗ trợ của các luật sư, luật gia và tổ chức chuyên nghiệp.

Để được hỗ trợ dịch vụ thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện, Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218 để yêu cầu cung cấp dịch vụ:

Địa chỉ: Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kon Tum, Thanh Xuân, Hà Nội
Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến: 1900 6218 - Hotline: 0936.949.998 (Luật sư Nguyễn Minh Hải)
E-mail: minhpham.everest@gmail.com, Hoặc: info@luatviet.net.vn.

Về chấp hành kỷ luật chuyển làm công việc khác có mức lương thấp hơn

Bộ luật Lao động (BLLĐ) năm 2012 không còn quy định hình thức xử lý kỷ luật chuyển làm công việc khác có mức lương thấp hơn trong thời hạn tối đa là sáu tháng. Vậy người lao động đang bị xử lý kỷ luật theo hình thức này sẽ chấp hành thế nào (Thủy Nguyễn).


Thạc sĩ, luật sư Phạm Ngọc Minh - Công ty Luật TNHH YouMe trả lời:

BLLĐ năm 1994 đã sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006, 2007 có quy định hình thức xử lý kỷ luật lao động “chuyển làm công việc khác có mức lương thấp hơn trong thời hạn tối đa là sáu tháng” (tại điểm b khoản 1 Điều 84). Theo đó, việc chuyển người lao động làm công việc khác có mức lương thấp hơn chỉ là tạm thời và trong thời hạn tối đa sáu tháng. Sau khi hết thời hạn hoặc được xét giảm thời hạn kỷ luật, người lao động được người sử dụng lao động bố trí trở lại làm việc cũ.
BLLĐ năm 2012 (có hiệu lực thi hành từ ngày 1.5.2013) không còn quy định về hình thức xử lý kỷ luật chuyển làm việc khác có mức lương thấp hơn. Đồng thời, tại BLLĐ năm 2012 có các quy định: “Trong trường hợp quy định của pháp luật thay đổi mà dẫn đến thỏa ước lao động tập thể không còn phù hợp với quy định của pháp luật, thì hai bên phải tiến hành sửa đổi, bổ sung thỏa ước lao động tập thể trong vòng 15 ngày, kể từ ngày quy định của pháp luật có hiệu lực” (đoạn 1 khoản 2 Điều 77); “Nội dung nội quy lao động không được trái với pháp luật về lao động và quy định khác của pháp luật có liên quan” (khoản 2 Điều 119); “Kể từ ngày bộ luật này có hiệu lực thi hành, các hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể, những thoả thuận hợp pháp khác đã giao kết và những thoả thuận có lợi hơn cho người lao động so với quy định của bộ luật này được tiếp tục thực hiện; những thoả thuận không phù hợp với quy định của bộ luật phải được sửa đổi, bổ sung” (điểm a khoản 2 Điều 240).

Các Luật sư, chuyên gia Công ty Luật TNHH Everest cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật về hình sựthành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện; dịch vụ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218.


Như vậy, căn cứ quy định nêu trên, hình thức xử lý kỷ luật chuyển làm công việc khác có mức lương thấp hơn trong thời hạn tối đa là sáu tháng và việc chấp hành hình thức này, nếu trước đó đã được các bên thỏa thuận tại thỏa ước lao động tập thể (trong đó bao gồm việc thực hiện nội quy lao động) và được công ty quy định tại nội quy lao động, thì phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với quy định của pháp luật.
Theo nguyên tắc có lợi cho người lao động, người đang chấp hành hình thức xử lý kỷ luật chuyển làm công việc khác có mức lương thấp hơn trong thời hạn tối đa là sáu tháng không phải tiếp tục chấp hành hình thức kỷ luật này, nhưng có thể bị chuyển sang hình thức kỷ luật khác (nhẹ hơn) như kéo dài thời hạn nâng lương không quá 06 tháng hoặc khiển trách.

Khuyến nghị:
Nội dung bài tư vấn pháp luật mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Để có thông tin chính xác cho tình huống cụ thể, Quý vị nên tìm đến sự hỗ trợ của các luật sư, luật gia và tổ chức chuyên nghiệp.

Để được hỗ trợ dịch vụ thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện, Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218 để yêu cầu cung cấp dịch vụ:

Địa chỉ: Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kon Tum, Thanh Xuân, Hà Nội
Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến: 1900 6218 - Hotline: 0936.949.998 (Luật sư Nguyễn Minh Hải)
E-mail: minhpham.everest@gmail.com, Hoặc: info@luatviet.net.vn.

Chế độ với người lao động khi công ty thay đổi cơ cấu, công nghệ

Tôi làm việc cho chi nhánh của một công ty nước ngoài ở Việt Nam từ tháng 1.2007 theo hợp đồng không xác định thời hạn. Tháng 4.2013, do làm ăn thua lỗ, không có khách hàng nên Công ty quyết định giải thể chi nhánh tại Việt Nam và cho tất cả nhân viên tại chi nhánh nghỉ việc. Công ty chỉ báo cho tôi nghỉ việc trước 2 tuần và không trả trợ cấp mất việc làm. Đề nghị luật sư cho biết công ty làm như vậy có đúng theo quy định của pháp luật lao động không (Loan Trần).


Thạc sĩ, Luật sư Phạm Ngọc Minh - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:


Theo khoản 1 Điều 17 Bộ luật Lao động hiện hành: “Trong trường hợp do thay đổi cơ cấu công nghệ mà người lao động đã làm việc thường xuyên trong doanh nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên bị mất việc làm thì người sử dụng lao động có trách nhiệm đào tạo lại họ để tiếp tục sử dụng vào những chỗ làm việc mới; nếu không thể giải quyết được việc làm mới, phải cho người lao động thôi việc thì phải trả trợ cấp mất việc làm, cứ mỗi năm làm việc trả một tháng lương, nhưng thấp nhất cũng bằng hai tháng lương”.

Trường hợp thay đổi cơ cấu công nghệ được hướng dẫn cụ thể tại khoản 1 Điều 11 Nghị định số 39/2003/NĐ-CP ngày 18.4.2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về việc làm (Nghị định 39/ 2003/ NĐ- CP): “a) Thay đổi một phần hoặc toàn bộ máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ tiên tiến có năng suất lao động cao hơn; b) Thay đổi sản phẩm hoặc cơ cấu sản phẩm dẫn đến sử dụng lao động ít hơn; c) Thay đổi cơ cấu tổ chức: Sáp nhập, giải thể một số bộ phận của đơn vị”.

Các Luật sư, chuyên gia Công ty Luật TNHH Everest cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật về hình sựthành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện; dịch vụ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218.


Căn cứ những quy định pháp luật nêu trên, đối chiếu với trường hợp của bà, việc Công ty quyết định giải thể chi nhánh tại Việt Nam do làm ăn thua lỗ và không có khách hàng, chính là thay đổi cơ cấu công nghệ theo khoản 1 Điều 17 Bộ luật Lao động và được hướng dẫn tại điểm c khoản 1 Điều 11 Nghị định 39/ 2003/ NĐ- CP. Thời gian bà làm việc tại công ty là từ tháng 1.2007, do đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 17 Bộ luật Lao động đã trích trên, công ty sẽ phải có trách nhiệm đào tạo lại bà để tiếp tục sử dụng vào những chỗ làm việc mới; nếu không thể giải quyết được việc làm mới, phải cho bà thôi việc thì phải trả trợ cấp mất việc làm, cứ mỗi năm làm việc trả một tháng lương, nhưng thấp nhất cũng bằng hai tháng lương.

Tuy nhiên, tại khoản 6 Điều 139 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 có quy định: “Thời gian người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định tại luật này không được tính để hưởng trợ cấp mất việc làm hoặc trợ cấp thôi việc theo quy định của pháp luật về lao động, pháp luật về cán bộ, công chức”. Do vậy, thời gian làm việc của bà từ tháng 1.2007 đến ngày 1.1.2009 là thời gian được tính để hưởng trợ cấp mất việc làm. Về thời gian báo trước khi cho người lao động thôi việc khi công ty thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ, pháp luật không có quy định cụ thể, vì vậy, việc công ty chỉ báo nghỉ việc trước 2 tuần cho bà không thể coi là vi phạm quy định của pháp luật lao động.

Khuyến nghị:
Nội dung bài tư vấn pháp luật mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Để có thông tin chính xác cho tình huống cụ thể, Quý vị nên tìm đến sự hỗ trợ của các luật sư, luật gia và tổ chức chuyên nghiệp.

Để được hỗ trợ dịch vụ thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện, Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218 để yêu cầu cung cấp dịch vụ:

Địa chỉ: Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kon Tum, Thanh Xuân, Hà Nội
Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến: 1900 6218 - Hotline: 0936.949.998 (Luật sư Nguyễn Minh Hải)
E-mail: minhpham.everest@gmail.com, Hoặc: info@luatviet.net.vn.

Nội quy lao động trái luật thì có thể kỷ luật người lao động vi phạm không?

Xin luật sư tư vấn giúp tôi trường hợp sau: Người lao động bị cho là vi phạm quy chế làm việc của công ty nhưng quy chế đó có những quy định không đúng so với những quy định của pháp luật về lao động thì công ty có quyền kỷ luật người lao động hay không (Ngô Quang Hòa).


Thạc sĩ, luật sư Phạm Ngọc Minh - Công ty Luật TNHH  Everest - trả lời:


Tại Điều 84, Bộ luật Lao động hiện hành quy định: Người lao động vi phạm kỷ luật lao động, tuỳ theo mức độ phạm lỗi sẽ bị xử lý theo một trong những hình thức kỷ luật do pháp luật quy định.

Tại khoản 1 Điều 82, Bộ luật Lao động quy định: Kỷ luật lao động là những quy định về việc tuân theo thời gian, công nghệ và điều hành sản xuất, kinh doanh thể hiện trong nội quy lao động. Nội quy lao động không được trái với pháp luật lao động và pháp luật khác. Doanh nghiệp sử dụng từ 10 người lao động trở lên phải có nội quy lao động bằng văn bản.

Tại điều 4 Nghị định 41/CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Bộ luật Lao động về trách nhiệm vật chất và kỷ luật lao động quy định: Nội quy lao động bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây: - Thời giờ làm việc và thời giờ nghỉ ngơi: Biểu thời giờ làm việc trong ngày, trong tuần, thời giờ nghỉ giải lao trong ca làm việc, số ca làm việc, ngày nghỉ hằng tuần; ngày nghỉ lễ, nghỉ hằng năm, nghỉ về việc riêng; số giờ làm thêm trong ngày, trong tuần, trong tháng, trong năm; - Trật tự trong doanh nghiệp: Phạm vi làm việc, đi lại; giao tiếp và những yêu cầu khác về giữ gìn trật tự chung; - An toàn lao động, vệ sinh lao động ở nơi làm việc: Việc chấp hành những biện pháp bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động, ngăn ngừa tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; tuân thủ các quy phạm, các tiêu chuẩn an toàn lao động, vệ sinh lao động; việc sử dụng và bảo quản trang bị phòng hộ cá nhân; vệ sinh công nghiệp tại nơi làm việc; - Bảo vệ tài sản, bí mật công nghệ, kinh doanh của đơn vị: Các loại tài sản, tài liệu, tư liệu, số liệu của đơn vị thuộc phạm vi trách nhiệm được giao;

Các Luật sư, chuyên gia Công ty Luật TNHH Everest cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật về hình sựthành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện; dịch vụ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218.


Đối với các hành vi vi phạm kỷ luật lao động, hình thức xử lý kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cụ thể hoá từng loại hành vi vi phạm, mức độ vi phạm; các hình thức xử lý vi phạm kỷ luật lao động; xác định các loại trách nhiệm vật chất, mức độ thiệt hại, phương thức bồi thường phù hợp với đặc điểm của đơn vị, với thoả ước lao động tập thể (nếu có) và không trái pháp luật.

Như vậy, căn cứ vào các quy định nói trên, người lao động chỉ có thể bị xử lý kỷ luật lao động khi có hành vi vi phạm kỷ luật lao động được thể hiện trong bản nội quy lao động. Bản nội quy lao động phải bao gồm các nội dung chủ yếu theo quy định và không trái với các quy định của pháp luật lao động và pháp luật khác. Do đó, trường hợp nội quy của công ty trái với quy định của pháp luật thì sẽ không thể kỷ luật người lao động nếu người lao động vi phạm những quy định này.

Khuyến nghị:
Nội dung bài tư vấn pháp luật mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Để có thông tin chính xác cho tình huống cụ thể, Quý vị nên tìm đến sự hỗ trợ của các luật sư, luật gia và tổ chức chuyên nghiệp.

Để được hỗ trợ dịch vụ thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện, Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218 để yêu cầu cung cấp dịch vụ:

Địa chỉ: Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kon Tum, Thanh Xuân, Hà Nội
Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến: 1900 6218 - Hotline: 0936.949.998 (Luật sư Nguyễn Minh Hải)
E-mail: minhpham.everest@gmail.com, Hoặc: info@luatviet.net.vn.

Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với lao động nữ khi mang thai

Vợ tôi làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn 36 tháng tại bệnh viện. Khi ký hợp đồng, bệnh viện có quy định sau hai năm làm việc tại bệnh viện, vợ tôi mới được sinh con. Tuy nhiên, đến nay khi chưa đủ thời gian làm việc 2 năm, vợ tôi sinh con, do đó, bệnh viện chấm dứt hợp đồng nói trên với vợ tôi. Đề nghị luật sư cho biết, việc bệnh viện chấm dứt hợp đồng lao động với vợ tôi có đúng theo quy định của pháp luật không? Vợ tôi phải làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình 


Thạc sĩ, Luật sư Phạm Ngọc Minh - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Theo khoản 3 Điều 39, khoản 3 Điều 111 Bộ luật Lao động quy định: “Người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động nữ vì lý do kết hôn, có thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp doanh nghiệp chấm dứt hoạt động. Trong thời gian có thai, nghỉ thai sản, nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi, người lao động nữ được tạm hoãn việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, kéo dài thời hạn xem xét kỷ luật lao động, trừ trường hợp doanh nghiệp chấm dứt hoạt động”.

Các Luật sư, chuyên gia Công ty Luật TNHH Everest cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật về hình sựthành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện; dịch vụ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218.


Hơn nữa, theo thông tin ông trình bày, hợp đồng lao động bệnh viện ký với vợ ông có điều khoản quy định người lao động không được phép sinh con trong 2 năm kể từ ngày ký hợp đồng là thỏa thuận trái nguyên tắc quy định tại khoản 1 Điều 5 Bộ luật Lao động: Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp, không bị phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo; trái nguyên tắc bảo đảm quyền làm việc của phụ nữ bình đẳng về mọi mặt nhằm giúp lao động nữ phát huy có hiệu quả năng lực nghề nghiệp, kết hợp hài hòa cuộc sống lao động và cuộc sống gia đình.

Căn cứ quy định pháp luật nêu trên, đối chiếu với tình huống cụ thể, việc bệnh viện chấm dứt HĐLĐ với vợ ông vì lý do vợ ông “sinh con khi chưa đủ 2 năm làm việc tại bệnh viện như thỏa thuận”, vợ ông vẫn trong thời gian đang mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi là trái với quy định pháp luật lao động. Do vậy, để bảo vệ quyền lợi của mình, vợ ông có thể đưa vụ việc ra Tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền để giải quyết.

Khuyến nghị:
Nội dung bài tư vấn pháp luật mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Để có thông tin chính xác cho tình huống cụ thể, Quý vị nên tìm đến sự hỗ trợ của các luật sư, luật gia và tổ chức chuyên nghiệp.

Để được hỗ trợ dịch vụ thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện, Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218 để yêu cầu cung cấp dịch vụ:

Địa chỉ: Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kon Tum, Thanh Xuân, Hà Nội
Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến: 1900 6218 - Hotline: 0936.949.998 (Luật sư Nguyễn Minh Hải)
E-mail: minhpham.everest@gmail.com, Hoặc: info@luatviet.net.vn.

Xác định người phụ thuộc để tính giảm trừ gia cảnh

Tôi hiện đang chu cấp tài chính cho ba mẹ đẻ (đã hết tuổi lao động và không có thu nhập) và 3 người cháu ruột chưa thành niên khác. Xin luật sư tư vấn giúp: Theo quy định của pháp luật, ba mẹ và 3 người cháu của tôi có được tính là đối tượng người phụ thuộc để giảm trừ gia cảnh khi tính thuế thu nhập cá nhân của tôi không (Nguyễn Hải Dương).


Tiến sĩ, Luật sư Vũ Thái Hà - Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội - trả lời:


Tại Điều 19 Luật Thuế thu nhập cá nhân quy định: Giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú.

Giảm trừ gia cảnh gồm hai phần sau: a) Mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng (48 triệu đồng/năm); b) Mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 1,6 triệu đồng/tháng.

Tại điểm 3.1 mục I, phần B Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30.9.2008 của Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế hướng dẫn cụ thể về người phụ thuộc bao gồm các đối tượng sau:

a) Con: Con đẻ, con nuôi, con ngoài giá thú, cụ thể: Con dưới 18 tuổi (được tính đủ theo tháng); con trên 18 tuổi bị tàn tật, không có khả năng lao động; con đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, không có thu nhập hoặc có thu nhập nhưng không vượt quá mức quy định.

b) Vợ hoặc chồng của đối tượng nộp thuế ngoài độ tuổi lao động hoặc trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật nhưng bị tàn tật, không có khả năng lao động, không có thu nhập hoặc có thu nhập nhưng không vượt quá mức quy định.

c) Cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ, mẹ vợ (hoặc cha chồng, mẹ chồng) của đối tượng nộp thuế ngoài độ tuổi lao động hoặc trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật nhưng bị tàn tật, không có khả năng lao động, không có thu nhập hoặc có thu nhập nhưng không vượt quá mức quy định.


Các Luật sư, chuyên gia Công ty Luật TNHH Everest cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình, thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện; dịch vụ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218.


d) Các cá nhân khác là người ngoài độ tuổi lao động hoặc trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật nhưng bị tàn tật, không có khả năng lao động, không nơi nương tựa, không có thu nhập hoặc có thu nhập nhưng không vượt quá mức quy định mà đối tượng nộp thuế đang phải trực tiếp nuôi dưỡng, bao gồm: Anh ruột, chị ruột, em ruột của đối tượng nộp thuế; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cô ruột, dì ruột, cậu ruột, chú ruột, bác ruột của đối tượng nộp thuế; cháu ruột của đối tượng nộp thuế (bao gồm con của anh ruột, chị ruột, em ruột); người phải trực tiếp nuôi dưỡng khác theo quy định của pháp luật.

Mức thu nhập làm căn cứ để xác định người phụ thuộc được áp dụng giảm trừ là mức thu nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 500.000 đồng.

Căn cứ các quy định trên, theo thông tin mà ông cung cấp, cha đẻ, mẹ đẻ của ông đã hết tuổi lao động, không có thu nhập; và nếu 3 người cháu ruột là người ngoài độ tuổi lao động hoặc trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật nhưng bị tàn tật, không có khả năng lao động, không nơi nương tựa, không có thu nhập hoặc có thu nhập nhưng không vượt quá mức quy định, mà ông đang phải trực tiếp nuôi dưỡng, thì họ được xác định là người phụ thuộc để giảm trừ gia cảnh khi tính thuế thu nhập cá nhân cho ông.

Khuyến nghị:
Nội dung bài tư vấn pháp luật mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Để có thông tin chính xác cho tình huống cụ thể, Quý vị nên tìm đến sự hỗ trợ của các luật sư, luật gia và tổ chức chuyên nghiệp.

Để được hỗ trợ dịch vụ thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện, Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218 để yêu cầu cung cấp dịch vụ:

Địa chỉ: Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kon Tum, Thanh Xuân, Hà Nội
Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến: 1900 6218 - Hotline: 0936.949.998 (Luật sư Nguyễn Minh Hải)
E-mail: minhpham.everest@gmail.com, Hoặc: info@luatviet.net.vn.

Chế độ BHXH đối với người lao động đã nghỉ hưu

Năm 2002, bố tôi đã nghỉ hưu và hưởng chế độ hưu trí. Nay, bố tôi làm việc tại một doanh nghiệp và được yêu cầu đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc. Đề nghị luật sư cho biết chế độ bảo hiểm xã hội được áp dụng với trường hợp của bố tôi được pháp luật quy định như thế nào (Vũ Thanh Hà)


Tiến sĩ, Luật sư Vũ Thái Hà - Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội - trả lời:

Tại khoản 2 Điều 5 Nghị định 44/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 9.5.2003 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về hợp đồng lao động nêu rõ: “Đối với hợp đồng lao động ký với người đã nghỉ hưu, người làm công việc có thời hạn dưới 3 tháng thì khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiền tàu xe, nghỉ hằng năm được tính gộp vào tiền lương hoặc tiền công của người lao động”.

Theo khoản 2 Điều 2 Nghị định 127/2008/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp quy định: “Người đang hưởng lương hưu hằng tháng, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng có giao kết hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc với người sử dụng lao động quy định tại Điều 3 Nghị định này theo các loại hợp đồng quy định tại khoản 1 Điều này không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp”.

Các Luật sư, chuyên gia Công ty Luật TNHH Everest cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình, thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện; dịch vụ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218.


Điều 1 Thông tư 17/2009/TT-BLĐTBXH sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư số 21/2003/TT-BLĐTBXH ngày 22.9.2003 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 9.5.2003 của Chính phủ về Hợp đồng lao động nêu rõ: “Hợp đồng lao động giao kết với người đang hưởng lương hưu hàng tháng và người làm việc có thời hạn dưới 03 tháng thì ngoài phần tiền lương theo công việc, người lao động còn được người sử dụng lao động thanh toán khoản tiền tính theo tỉ lệ phần trăm (%) so với tiền lương theo hợp đồng lao động, gồm:

a) Bảo hiểm xã hội: Từ ngày thông tư này có hiệu lực thi hành đến tháng 12 năm 2009 là 15%; từ tháng 1 năm 2010 đến tháng 12 năm 2011 là 16%; từ tháng 1 năm 2012 đến tháng 12 năm 2013 là 17%; từ tháng 1 năm 2014 trở đi là 18%.

b) Bảo hiểm y tế 2%. Khi Chính phủ quy định tăng mức đóng bảo hiểm y tế đối với người sử dụng lao động thì thực hiện theo quy định của Chính phủ.

c) Nghỉ hàng năm 4%.

d) Tiền tàu xe đi lại khi nghỉ hàng năm do hai bên thỏa thuận trong hợp đồng lao động”.

Như vậy, căn cứ quy định pháp luật nêu trên, đối với NLĐ đã nghỉ hưu và đang hưởng chế độ hưu trí, khi tiếp tục giao kết hợp đồng lao động, thì NSDLĐ và NLĐ không phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp. Do đó, hiện nay, khi đang hưởng chế độ hưu trí, bố ông không phải tham gia BHXH bắt buộc khi giao kết hợp đồng lao động với doanh nghiệp.

Khuyến nghị:
Nội dung bài tư vấn pháp luật mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Để có thông tin chính xác cho tình huống cụ thể, Quý vị nên tìm đến sự hỗ trợ của các luật sư, luật gia và tổ chức chuyên nghiệp.

Để được hỗ trợ dịch vụ thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện, Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218 để yêu cầu cung cấp dịch vụ:

Địa chỉ: Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kon Tum, Thanh Xuân, Hà Nội
Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến: 1900 6218 - Hotline: 0936.949.998 (Luật sư Nguyễn Minh Hải)
E-mail: minhpham.everest@gmail.com, Hoặc: info@luatviet.net.vn.

Chế độ tai nạn lao động

Anh trai tôi làm việc tại một công ty có vốn đầu tư nước ngoài và đã tham gia bảo hiểm xã hội cho đến nay là 14 năm. Vừa qua, trong lúc đang làm việc, anh tôi bị tai nạn và tử vong tại chỗ. Xin hỏi luật sư: Theo quy định của pháp luật, thân nhân của anh trai tôi sẽ được hưởng những chế độ gì và doanh nghiệp nơi anh tôi làm việc có phải chịu trách nhiệm bồi thường hay không (Ngô Thị Lãm).


Tiến sĩ, Luật sư Vũ Thái Hà - Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội - trả lời:


Tại Điều 39 - Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006, được hướng dẫn tại Điều 19 của Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22.12.2006 của Chính phủ quy định điều kiện hưởng chế độ tai nạn lao động như sau: Bị tai nạn tại nơi làm việc và trong giờ làm việc kể cả trong thời gian nghỉ giải lao, ăn giữa ca, thời gian chuẩn bị và kết thúc công việc; bị tai nạn ngoài nơi làm việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động (NSDLĐ); bị tai nạn trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc trong khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý. Trong khoảng thời gian hợp lý là khoảng thời gian cần thiết để đến nơi làm việc trước giờ làm việc hoặc trở về sau giờ làm việc. Tuyến đường hợp lý là tuyến đường thường xuyên đi và về từ nơi thường trú hoặc nơi đăng ký tạm trú đến nơi làm việc và ngược lại.

Tại Điều 47 Luật Bảo hiểm xã hội quy định về trợ cấp một lần khi chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp như sau: Người lao động đang làm việc bị chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc bị chết trong thời gian điều trị lần đầu do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thì thân nhân được hưởng trợ cấp một lần bằng 36 tháng lương tối thiểu chung.

Tại khoản 3, Điều 107 Bộ luật Lao động hiện hành quy định: Người sử dụng lao động có trách nhiệm bồi thường ít nhất bằng 30 tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu có) cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mà không do lỗi của người lao động. Trong trường hợp do lỗi của người lao động thì cũng được trợ cấp một khoản tiền ít nhất cũng bằng 12 tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu có).

Các Luật sư, chuyên gia Công ty Luật TNHH Everest cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình, thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện; dịch vụ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218. 


Như vậy, căn cứ vào các quy định nói trên, theo các thông tin mà bà cung cấp, anh trai bà bị tai nạn trong thời gian làm việc và tử vong tại chỗ, do đó, thân nhân của anh trai bà sẽ được hưởng trợ cấp một lần bằng 36 tháng lương tối thiểu chung do cơ quan bảo hiểm xã hội chi trả. Đồng thời, trong trường hợp tai nạn lao động xảy ra không do lỗi của anh trai bà thì công ty nơi anh bà làm việc có trách nhiệm bồi thường ít nhất bằng 30 tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu có), trường hợp tai nạn lao động xảy ra do lỗi của anh trai bà thì công ty phải trợ cấp một khoản tiền ít nhất bằng 12 tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu có).

Khuyến nghị:
Nội dung bài tư vấn pháp luật mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Để có thông tin chính xác cho tình huống cụ thể, Quý vị nên tìm đến sự hỗ trợ của các luật sư, luật gia và tổ chức chuyên nghiệp.

Để được hỗ trợ dịch vụ thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện, Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218 để yêu cầu cung cấp dịch vụ:

Địa chỉ: Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kon Tum, Thanh Xuân, Hà Nội
Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến: 1900 6218 - Hotline: 0936.949.998 (Luật sư Nguyễn Minh Hải)
E-mail: minhpham.everest@gmail.com, Hoặc: info@luatviet.net.vn.

Tiền lương, tiền công làm căn cứ tính chế độ trợ cấp thôi việc

Tôi làm việc tại một công ty từ năm 1998 đến hết tháng 2.2013 và có đóng bảo hiểm thất nghiệp từ năm 2009. Xin hỏi luật sư, công ty trả trợ cấp thôi việc cho tôi với mức chi trả được tính dựa trên mức lương cơ bản của 6 tháng liền kề từ cuối năm 2008 về trước thì có đúng không (Võ Hồng Hải).


Tiến sĩ, Luật sư Vũ Thái Hà - Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội - trả lời: 


Tại khoản 2, Điều 41 Nghị định số 127/2008/NĐ-CP ngày 12.12.2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp quy định: Thời gian người lao động thực tế làm việc theo các bản hợp đồng lao động với người sử dụng lao động mà không phải đóng bảo hiểm thất nghiệp thì được tính để xét hưởng trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm theo quy định của pháp luật lao động hiện hành.
Tiền lương, tiền công làm căn cứ tính chế độ trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm theo pháp luật về lao động là tiền lương, tiền công theo hợp đồng lao động (HĐLĐ), được tính bình quân của 6 tháng liền kề trước khi mất việc làm hoặc chấm dứt HĐLĐ, gồm tiền công hoặc tiền lương cấp bậc, chức vụ, phụ cấp khu vực, phụ cấp chức vụ (nếu có).

Đồng thời, tại Điều 14, Nghị định số 44/2003/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một  số điều của Bộ luật Lao động về Hợp đồng lao động, Thông tư số 17/2009/TT-BLĐTBXH sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư số 21/2003/TT-BLĐTBXH ngày 22 tháng 9 năm 2003 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 9 tháng 5 năm 2003 của Chính phủ về hợp đồng lao động, quy định việc tính trợ cấp thôi việc như sau: Tiền trợ cấp thôi việc = Tổng thời gian làm việc tại doanh nghiệp tính trợ cấp thôi việc  x Tiền lương làm căn cứ tính trợ cấp thôi việc  x 1/2.

Các Luật sư, chuyên gia Công ty Luật TNHH Everest cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình, thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện; dịch vụ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218.


Trường hợp, tổng thời gian làm việc tại doanh nghiệp tính trợ cấp thôi việc có tháng lẻ thì được làm tròn: Từ đủ 1 tháng đến dưới 6 tháng làm tròn thành ½  năm; từ đủ 6 tháng đến dưới 12 tháng làm tròn thành 1 năm.

Tiền lương làm căn cứ tính trợ cấp thôi việc là tiền lương, tiền công theo HĐLĐ, được tính bình quân của 6 tháng liền kề trước khi chấm dứt HĐLĐ, gồm tiền công hoặc tiền lương cấp bậc, chức vụ, phụ cấp khu vực, phụ cấp chức vụ (nếu có).

Như vậy, căn cứ vào các quy định nói trên, theo các thông tin mà ông cung cấp, do từ năm 2009 ông đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp, cho nên, ông sẽ được nhận trợ cấp thôi việc do công ty chi trả cho thời gian làm việc tính đến hết năm 2008, tiền lương làm căn cứ tính trợ cấp thôi việc là tiền lương, tiền công theo HĐLĐ, được tính bình quân của 6 tháng liền kề cuối cùng của năm 2008 gồm tiền công hoặc tiền lương cấp bậc, chức vụ, phụ cấp khu vực, phụ cấp chức vụ (nếu có).

Khuyến nghị:
Nội dung bài tư vấn pháp luật mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Để có thông tin chính xác cho tình huống cụ thể, Quý vị nên tìm đến sự hỗ trợ của các luật sư, luật gia và tổ chức chuyên nghiệp.

Để được hỗ trợ dịch vụ thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện, Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218 để yêu cầu cung cấp dịch vụ:

Địa chỉ: Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kon Tum, Thanh Xuân, Hà Nội
Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến: 1900 6218 - Hotline: 0936.949.998 (Luật sư Nguyễn Minh Hải)
E-mail: minhpham.everest@gmail.com, Hoặc: info@luatviet.net.vn.

Thứ Năm, 18 tháng 6, 2015

Thời giờ nghỉ đối với lao động nữ nuôi con dưới 12 tháng tuổi

Tôi vừa đi làm trở lại sau thời gian nghỉ sinh con 6 tháng. Hằng ngày, công ty cho phép tôi nghỉ thêm 40 phút để cho con bú, nhưng cuối tháng lại trừ 50.000 đồng vào tiền lương của tôi với lý do tôi làm không đủ 8 tiếng/ngày. Hiện con tôi đã được 9 tháng tuổi. Xin hỏi luật sư: Công ty làm như vậy với tôi có đúng không? (Trần Thanh Lam).


Tiến sĩ, Luật sư Vũ Thái Hà - Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội - trả lời:


Tại Chương 10 Bộ luật Lao động hiện hành, phần những quy định riêng đối với lao động nữ thì người lao động nữ trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi sẽ được hưởng những ưu tiên nhất định, cụ thể như sau: Theo quy định tại Điều 115 Bộ luật Lao động thì người sử dụng lao động không được sử dụng người lao động nữ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi làm thêm giờ, làm việc ban đêm và đi công tác xa. Người lao động nữ trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi, được nghỉ mỗi ngày 60 phút trong thời gian làm việc, mà vẫn hưởng đủ lương.

Đồng thời, tại khoản 3 điều 3 Nghị định 195/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi được tính vào thời giờ làm việc có hưởng lương bao gồm: i) Thời giờ nghỉ giữa ca làm việc; ii) Thời giờ nghỉ giải lao theo tính chất của công việc; iii) Thời giờ nghỉ cần thiết trong quá trình lao động đã được tính trong định mức lao động cho nhu cầu sinh lý tự nhiên của con người; iv) Thời giờ nghỉ mỗi ngày 60 phút đối với người lao động nữ nuôi con dưới 12 tháng tuổi; v) Thời giờ nghỉ mỗi ngày 30 phút đối với người lao động nữ trong thời gian hành kinh; vi) Thời giờ phải ngừng việc không do lỗi của người lao động; vii) Thời giờ học tập, huấn luyện về an toàn lao động, vệ sinh lao động; vii) Thời giờ hội họp, học tập do yêu cầu của người sử dụng lao động hoặc được người sử dụng lao động cho phép.

Các Luật sư, chuyên gia Công ty Luật TNHH Everest cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình, thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện; dịch vụ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218.



Như vậy, căn cứ vào các quy định trên, theo các thông tin mà bà cung cấp, bà thuộc diện lao động nữ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi, cho nên, bà sẽ được nghỉ mỗi ngày 60 phút trong thời gian làm việc mà vẫn hưởng đủ lương. Do đó, việc công ty trừ tiền lương của bà với lý do bà làm việc không đủ 8 tiếng/ngày là không đúng với các quy định của pháp luật.

Khuyến nghị:
Nội dung bài tư vấn pháp luật mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Để có thông tin chính xác cho tình huống cụ thể, Quý vị nên tìm đến sự hỗ trợ của các luật sư, luật gia và tổ chức chuyên nghiệp.

Để được hỗ trợ dịch vụ thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện, Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218 để yêu cầu cung cấp dịch vụ:

Địa chỉ: Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kon Tum, Thanh Xuân, Hà Nội
Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến: 1900 6218 - Hotline: 0936.949.998 (Luật sư Nguyễn Minh Hải)
E-mail: minhpham.everest@gmail.com, Hoặc: info@luatviet.net.vn.

Thứ Tư, 17 tháng 6, 2015

Xử lý công trình xây dựng gây lún, nứt, hư hỏng công trình lân cận

Hộ liền kề xây dựng nhà làm nứt tường và mái nhà của gia đình tôi, tôi đã nhiều lần trao đổi với họ nhưng không có kết quả. Đề nghị luật sư tư vấn, tôi có thể đề nghị cơ quan nhà nước buộc bên gây thiệt hại giải quyết bồi thường cho gia đình tôi được không, thủ tục như thế nào (Nguyễn Đức Hoàn, Kim Ngưu, Hai Bà Trưng, Hà Nội)


Thạc sĩ, Luật sư Phạm Ngọc Minh - Giám đốc Công ty Luật TNHH Everest trả lời:


Vấn đề ông hỏi đã được Bộ Xây dựng hướng dẫn tại Điều 3 Thông tư số 02/2014/TT-BXD ngày 12.02.2014, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 121/2013/NĐ-CP ngày 10.10.2013, như sau:

Tổ chức, cá nhân có hành vi tổ chức thi công xây dựng vi phạm quy định về xây dựng gây lún, nứt, hư hỏng công trình lân cận; có nguy cơ làm sụp đổ hoặc gây sụp đổ công trình lân cận thì bị xử phạt VPHC theo quy định tại Điều 27 Nghị định số 121/2013/NĐ-CP, đồng thời bị ngừng thi công xây dựng để bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 15 Nghị định số 180/2007/NĐ-CP theo trình tự, thủ tục:

Các Luật sư, chuyên gia Công ty Luật TNHH Everest cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật về hình sự, thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện; dịch vụ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218.


a) Sau khi biên bản VPHC được lập, nếu bên vi phạm và bên bị thiệt hại không tự thỏa thuận được và một bên có đơn yêu cầu thì Chủ tịch UBND cấp xã chủ trì việc thỏa thuận mức bồi thường thiệt hại giữa hai bên. Hết thời hạn 07 ngày kể từ ngày thỏa thuận lần đầu không thành hoặc bên bị thiệt hại vắng mặt tại buổi thỏa thuận lần đầu mà không có lý do chính đáng, Chủ tịch UBND cấp xã tổ chức thỏa thuận lần hai. Nếu bên bị thiệt hại tiếp tục vắng mặt (lần hai) không có lý do chính đáng thì bên vi phạm được tiếp tục thi công xây dựng sau khi chuyển khoản tiền tương đương mức thiệt hại gây ra vào tài khoản bảo lãnh tại ngân hàng. Chủ tịch UBND cấp xã quyết định mức tiền bảo lãnh;

b) Trường hợp thỏa thuận lần hai không thành, hai bên thống nhất mời một tổ chức độc lập, có tư cách pháp nhân để xác định mức độ thiệt hại làm cơ sở bồi thường. Trong thời hạn 07 ngày mà hai bên không thống nhất được việc mời tổ chức để giám định, Chủ tịch UBND cấp xã quyết định mời một tổ chức để giám định, chi phí do bên vi phạm chi trả;

c) Trong thời hạn 07 ngày mà một trong các bên không thống nhất với kết quả giám định, bên đó có quyền mời một tổ chức khác và tự chi trả chi phí. Trường hợp bên còn lại không thống nhất với kết quả lần hai, Chủ tịch UBND cấp xã quyết định mức bồi thường theo mức trung bình hai lần giám định;
d) Sau 30 ngày mà tổ chức giám định không cung cấp kết quả giám định, Chủ tịch UBND cấp xã quyết định sử dụng kết quả giám định ban đầu làm cơ sở xác định bồi thường thiệt hại. Bên gây thiệt hại có trách nhiệm mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng và chuyển số tiền bồi thường vào tài khoản đó. Chủ tịch UBND cấp xã quyết định cho phép tiếp tục thi công xây dựng công trình khi bên gây thiệt hại đã thực hiện xong nghĩa vụ.

Bên bị thiệt hại không thống nhất với mức bồi thường thì có quyền khởi kiện tại Tòa án. Trường hợp công trình xây dựng có nguy cơ sụp đổ hoặc gây sụp đổ công trình lân cận thì Chủ đầu tư hỗ trợ tiền di chuyển và thuê chỗ ở tạm thời cho bên bị thiệt hại trong thời gian giải quyết.

Khuyến nghị:
Nội dung bài tư vấn pháp luật mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Để có thông tin chính xác cho tình huống cụ thể, Quý vị nên tìm đến sự hỗ trợ của các luật sư, luật gia và tổ chức chuyên nghiệp.

Để được hỗ trợ dịch vụ thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty, thành lập văn phòng đại diện, Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900 6218 để yêu cầu cung cấp dịch vụ:

Địa chỉ: Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kon Tum, Thanh Xuân, Hà Nội
Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến: 1900 6218 - Hotline: 0936.949.998 (Luật sư Nguyễn Minh Hải)
E-mail: minhpham.everest@gmail.com, Hoặc: info@luatviet.net.vn.